Năm 1949, đồng chí làm giao liên hợp pháp, chỉ huy Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã và có nhiều đóng góp trong vận động phụ nữ gây dựng phong trào ở địa phương, mưu trí, dũng cảm lọt qua mắt địch, đưa công văn, chỉ thị của Đảng đến nơi an toàn, kịp lúc. Năm 1950, mặc dù mong muốn trực tiếp chiến đấu chống kẻ thù, nhưng khi được cử đi học lớp Cô đỡ ở Đồng Tháp Mười, đồng chí đã khắc phục khó khăn, gởi con nhỏ cho gia đình chăm sóc, chấp hành sự phân công của tổ chức, lên đường nhập học đúng thời gian quy định. Sau khi hoàn thành khóa học, đồng chí trở về địa phương, tiếp tục công tác phụ nữ, vừa giúp chị em trong việc sinh đẻ, vừa lấy nghề cô đỡ làm điều kiện tiếp xúc với quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng và giác ngộ, động viên nhiều gia đình cho con em tham gia cách mạng. Nhờ đó, năm 1951-1952, xã Phú Thạnh Đông có hơn 100 hội viên phụ nữ. Đây là một trong những xã có phong trào phụ nữ mạnh nhất huyện. Năm 1951, đồng chí được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Năm 1952, đồng chí là Chi ủy viên chi bộ xã Phú Thạnh Đông.
Năm 1954, sau khi tiễn người chồng tập kết ra miền Bắc, đồng chí ở lại quê nhà, vừa chăm sóc cha, mẹ già và 02 con nhỏ, vừa làm Bí thư chi bộ mật xã Phú Thạnh Đông với nhiệm vụ lãnh đạo chi bộ vượt qua thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng. Tháng 11/1954, đồng chí tổ chức cuộc mít tinh mừng hòa bình và đòi chính quyền địch thực hiện Hiệp định Genève với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng.
Cuối 1956, đồng chí bị địch bắt. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết; đồng thời, động viên đồng đội kiên quyết không khai báo. Sau ba tháng ở trại giam Gò Công, không khai thác được gì, địch chuyển đồng chí lên nhà lao Thủ Đức, đưa vào trại biệt giam dành cho thành phần nguy hiểm. Tại đây, tù chính trị bị buộc phải xác định rõ lập trường của mình trước hai hướng: Một là đi theo con đường cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai là chấp nhận “ly khai cộng sản” để “trở về với chính nghĩa quốc gia do Ngô Tổng thống lãnh đạo”. Tuy nhiên, đồng chí và tất cả tù chính trị đều kiên cường đấu tranh chống ly khai và chế độ nhà tù hà khắc; bảo vệ lập trường, khí tiết cách mạng; kiên quyết không khai báo, không học “tố cộng”, không chào cờ ngụy, không hô khẩu hiệu phản động, không tuyên bố ly khai Đảng và Bác Hồ, một lòng trung thành với Đảng, thà hy sinh chứ nhất quyết không chịu ly khai, không xé cờ Đảng, cờ Tổ quốc.
Để trả đũa, bọn giám ngục bắt đồng chí đưa xuống hầm tối, đầy nước, rác, đỉa và xác súc vật. Khi được kéo lên, đồng chí đã bị bất tỉnh. Tuy nhiên, vừa tỉnh lại, đồng chí vẫn không khuất phục trước cường quyền bạo lực. Thấy đồng chí bị đánh đập, hành hạ triền miên, một số nữ tù khuyên đồng chí nên bớt đấu tranh, dưỡng sức để chiến đấu lâu dài với địch. Nhưng với ý chí tiến công của một chiến sĩ cách mạng trung kiên, đồng chí đã khẳng khái nói: “Các chị cứ theo nội quy nhà tù, còn đấu tranh cứ để tôi. Tôi phải xứng đáng là đảng viên cộng sản”.
Tháng 11/1958, do không tìm đủ chứng cứ để buộc tội, địch buộc phải thả đồng chí. Trải qua hai năm trong nhà tù của bọn đế quốc, đồng chí đã được trui rèn trong lửa đỏ, tỏ rõ ý chí kiên cường của người cộng sản, là hạt nhân của cuộc đấu tranh, là người đi đầu trong mọi gian lao nguy hiểm. Khi đồng chí trở về địa phương, cơ sở cách mạng bị địch đánh phá ác liệt và gần như tan vỡ hoàn toàn. Với tinh thần vượt khó cao độ, bất chấp gian khổ, hy sinh, đồng chí lao vào công tác, hoạt động đơn tuyến, gầy dựng lại phong trào. Năm 1961-1962, đồng chí được cấp trên cử đi học khóa y sĩ. Năm 1963, sau khi hoàn thành khóa học, đồng chí được điều về làm Phó ban Dân y huyện Tây (nay là huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông). Từ 1965-1968, vùng Gò Công bị bình định trắng, địch đánh phá liên tục, số thương binh ở trạm dân y do đồng chí phụ trách có lúc lên đến 70-80 người, tiền bạc, lương thực, thuốc men cạn kiệt. Nhưng đồng chí không ngại khó khăn, nguy hiểm, tìm về cơ sở gặp hội phụ nữ các xã để vận động quyên góp được hàng trăm ký gạo và một số tiền lớn, tổ chức đường dây mua thuốc, dụng cụ y tế ở Mỹ Tho, Sài Gòn để cứu chữa thương binh.
Năm 1968, đồng chí được đề bạt làm Trưởng ban Dân y huyện. Đầu năm 1969, một tin đau thương đến với đồng chí: cả hai con trai của đồng chí đều anh dũng hy sinh trên chiến trường. Nén nỗi đau thương mất mát quá to lớn, đồng chí hăng say công tác với quyết tâm chiến đấu giải phóng quê hương, trả thù cho bao đồng đội, đồng chí và cả hai người con thân yêu của mình đã “vì nước quên thân”. Tháng 10/1969, địch càn vào trạm Dân y huyện. Trước tình hình khẩn cấp, đồng chí cùng cán bộ của trạm nhanh chóng chuyển toàn bộ thương binh đến nơi trú ẩn an toàn. Sau đó, đồng chí cùng với hai nữ y tá xuống hầm bí mật. Do có chỉ điểm, nên bọn địch phát hiện hầm của đồng chí và liên tục gọi hàng. Một lúc sau, thấy gọi hàng không kết quả, chúng dùng súng bắn tới tấp xuống hầm. Kiên quyết không để bị địch bắt, đồng chí và đồng đội bật nấp hầm, tung lựu đạn, đánh trả địch. Tuy nhiên, do quân địch đông và hỏa lực mạnh, nên đồng chí và đồng đội đã anh dũng hy sinh ngay tại miệng hầm. Về phía địch, có một tên đền tội và ba tên khác bị thương. Trước lúc hi sinh, đồng chí đã xé tất cả tiền bạc, giấy tờ; phá dụng cụ, thuốc men, quyết không để lọt vào tay địch. Sự hi sinh oanh liệt của đồng chí, đồng đội đã làm cho bọn địch khiếp đảm. Đồng chí quả là người phụ nữ trung kiên, xứng đáng với bao tấm gương tiết liệt của phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Đồng chí Nguyễn Thị Bờ hi sinh năm 43 tuổi, được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng chí là cán bộ y tế kiên cường; triệt để chấp hành sự phân công của tổ chức; tuyệt đối trung thành với Đảng và Nhân dân; kiên trì và nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, nguy hiểm; tận tụy, sáng tạo trong công việc, nhất là trong chăm sóc thương binh; chiến đấu anh dũng đến giờ phút cuối cùng; hi sinh bản thân, trong đó có cả hai con của mình, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, làm sáng ngời truyền thống vẻ vang của ngành Y tế cách mạng và nữ giới tỉnh nhà. Đặc biệt, trong thời gian bị địch bắt giam từ năm 1956-1958, trải qua các nhà tù, trại giam của địch, mặc dù bị hành hạ, đày ải đến độ cùng cực, nhưng đồng chí vẫn không nao núng, lay chuyển, luôn luôn bền gan, quyết chí, kiên định lập trường, giữ vững niềm tin tất thắng của cách mạng, nêu cao khí phách trung dũng, quả cảm, kiên cường đấu tranh không khoan nhượng, giữ trọn khí tiết của người cộng sản chân chính. Những đòn roi tra tấn của kẻ thù không làm cho đồng chí run sợ; mà ngược lại, càng làm mạnh hơn ý chí kiên cường, quyết sống và chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc, vì hòa bình cho quê hương. Tên của đồng chí được đặt tên đường ở thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Trích: Những mẩu chuyện đấu tranh của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Tiền Giang trong nhà tù, trại giam của địch (1930 - 1975).