Tháng 8-1945, đồng chí giác ngộ cách mạng, gia nhập lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn chiến đấu chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Nam Bộ. Đồng chí đã trải qua các trận đánh ác liệt ở chiến trường Khu 7 và Khu 8, lập được nhiều chiến công. Tháng 2-1961, đồng chí đảm nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 261. Đây là tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu 8 (Khu Trung Nam Bộ) trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Ngày 02-01-1963, địch huy động khoảng 2.000 quân có máy bay, pháo binh, tàu chiến yểm trợ, chia thành nhiều mũi càn vào Ấp Bắc, xã Tân Phú, huyện Cai Lậy (nay là xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy). Đồng chí đã chỉ huy Tiểu đoàn 261 phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh càn quyết liệt. Kết quả trận này, ta loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên, trong đó có 3 cố vấn Mỹ và hàng chục sĩ quan ngụy, bắn rơi và bắn hỏng 16 máy bay trực thăng, bắn cháy 3 xe thiết giáp M.113, 2 tàu chiến, bẻ gãy hoàn toàn trận càn của địch.
Chiến thắng Ấp Bắc làm thất bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch, mở đầu phong trào đánh bại chiến thuật mới của địch trên toàn chiến trường miền Nam. Đó là chiến công có ý nghĩa chiến lược, mở ra cục diện mới, đem lại lòng tin cho chiến sĩ và Nhân dân ở miền Nam có khả năng đánh thắng Mỹ về quân sự trong “Chiến tranh đặc biệt”. Từ đó, tạo nên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” sôi nổi trên khắp chiến trường miền Nam. Sau chiến thắng Ấp Bắc, đồng chí chỉ huy Tiểu đoàn 261 đánh thắng nhiều trận oanh liệt, góp công lớn trong việc xây dựng tiểu đoàn trở thành đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, trên cương vị là Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh 31, Phân khu 2 bắc Long An, đồng chí hai lần chỉ huy đơn vị đánh vào Sài Gòn, chọc thủng tuyến phòng thủ kiên cố của địch, bản thân đồng chí luôn đi sát mũi đột kích, hai lần bị thương nhưng vẫn không rời trận địa, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong những đợt đánh vào Sài Gòn, đơn vị do đồng chí chỉ huy đã diệt gần 500 tên địch, phá hủy 10 xe tăng và xe bọc thép. Tuy nhiên, trong một trận đánh ác liệt, đồng chí đã anh dũng hy sinh. Từ ngày nhập ngũ đến lúc hy sinh (1968), đồng chí đã chiến đấu và chỉ huy chiến đấu trên 200 trận lớn nhỏ trên chiến trường Nam Bộ, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch.
Trong quá trình chiếu đấu, đồng chí được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Ngày 6-11-1978, đồng chí được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.