Thế nhưng, để che đậy bộ mặt xâm lược, phi nghĩa, cả giặc Xiêm và giặc Thanh đều vin vào cớ là, do có sự cầu viện của Nguyễn Ánh và Lê Chiêu Thống, nên mới đưa quân sang xâm lược nước ta.
2) Về đối tượng của hai chiến dịch RG - XM và NH - ĐĐ
Cả giặc Xiêm và giặc Thanh đều là những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn của dân tộc ta. Vào thế kỷ XVIII, vương quốc Xiêm là một trong những nước có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á; từng chiếm đóng Chân Lạp, Lào, một phần Mã Lai; xâm lấn Miến Điện và Đàng Trong của đất nước ta; cũng như tranh chấp trên biển với Java (Indonesia).
Còn giặc Thanh, dưới thời Thanh Càn Long, đang ở vào giai đoạn cực thịnh: kinh tế, quân sự có sự phát triển vượt bậc với lãnh thổ rất rộng lớn và dân số đông nhất thế giới. Trung Quốc lúc đó là nước hùng mạnh nhất Châu Á.
Vào cuối thế kỷ 18, dân tộc ta phải đương đầu với hai kẻ thù như thế; nên cuộc chiến đấu giữ nước của nhân dân ta diễn ra rất gay go và ác liệt.
3) Về việc rút lui chiến thuật của nghĩa quân Tây Sơn khi mở đầu chiến dịch
Tháng 7 năm Giáp Thìn (8-1784), giặc Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá. Lực lượng của chúng lúc này còn rất sung mãn. Trong khi đó lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đóng ở vùng đất Gia Định ít hơn so với quân địch. Do đó, dưới sự chỉ huy của phò mã Trương Văn Đa và Đô đốc Nguyễn Trấn, nghĩa quân Tây Sơn vừa tiến hành một số trận đánh; vừa tổ chức lui binh chiến thuật. Rồi sau đó, cấp báo về đại bản doanh của Bộ chỉ huy nghĩa quân đóng ở Quy Nhơn; để chờ đại quân vào tiến hành cuộc phản công chiến lược, đánh bại quân Xiêm.
Trong chiến dịch NH - ĐĐ (1789), trước thế mạnh ban đầu của giặc Thanh, sau một vài trận nhỏ có tính cách thăm dò, nghĩa quân Tây Sơn đồn trú tại Bắc Hà theo kế sách của Ngô Thời Nhiệm tạm rút lui về Tam Điệp (Ninh Bình). Từ đây, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở cho người cấp tốc lên đường vào Phú Xuân, báo tin giặc dữ cho Nguyễn Huệ biết để ông kịp thời lên kế hoạch tác chiến diệt địch.
Các cuộc rút lui chiến thuật của nghĩa quân Tây Sơn có các tác dụng:
- Thứ nhất, thăm dò lực lượng và khả năng tác chiến của đối phương;
- Thứ hai, tiêu diệt một phần sinh lực địch;
- Thứ ba, bảo toàn lực lượng nghĩa quân;
- Thứ tư, làm cho bọn địch sinh ra chủ quan, kiêu ngạo, đánh giá thấp nghĩa quân; để từ đó mất cảnh giác, không chu đáo trong phòng bị, tạo điều kiện cho nghĩa quân đánh bại bọn chúng;
- Thứ năm, từ chỗ chủ quan, kiêu ngạo, bọn địch đi đến hành động cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ, lộng hành, ngang ngược. Điều ấy, đã làm cho nhân dân thấy rõ bộ mặt xấu xa của bọn cướp nước và bè lũ bán nước; để từ đó, hết lòng ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn trong việc đánh giặc giữ nước và bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân.
4) Hành quân thần tốc - nét độc đáo của quân Tây Sơn
Từ Quy Nhơn, Nguyễn Huệ chỉ huy hạm thuyền, men theo bờ biển đi về hướng Nam tiến đến đóng ở Mỹ Tho chỉ mất có 15 ngày trên một hải trình dài hơn 700km.
Từ Phú Xuân, Quang Trung chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn hành quân ra Bắc hà với độ dài khoảng 600 km chỉ mất có khoảng 20 ngày.
Lúc bấy giờ, hành quân như vậy được xem là thần tốc. Sở dĩ nghĩa quân đạt được điều ấy là do:
- Thứ nhất, nghĩa quân có tính kỷ luật cao;
- Thứ hai, sự tổ chức tài giỏi của các tướng lĩnh nghĩa quân mà người đứng đầu là Nguyễn Huệ - Quang Trung;
- Thứ ba, có nhiều thuyền với trọng tải lớn để vận chuyển quân;
- Thứ tư, sự thuận lợi của thời tiết, v.v…
5) Bổ sung quân số trên đường hành tiến và hậu cần tại chỗ
Trên đường hành quân tiến vào Mỹ Tho đánh giặc Xiêm hay ra Bắc hà đánh giặc Thanh, Nguyễn Huệ đều tổ chức tuyển quân ở các địa phương để tăng cường quân số; đồng thời, vận động nhân dân đóng góp hậu cần để nuôi quân đánh giặc. Việc Nguyễn Huệ thành công ở công tác này biểu hiện tính quần chúng nhân dân rất rộng rãi và đi vào chiều sâu của phong trào Tây Sơn; đồng thời, nó cũng phản ánh công tác quốc phòng của chính quyền Tây Sơn đã tổ chức tốt ở cấp cơ sở.
6) Đánh nhanh thắng nhanh và tiêu diệt triệt để - tư tưởng chiến lược chủ động của nhà quân sự kiệt xuất Nguyễn Huệ
Trong chiến dịch RG - XM, tính từ lúc nổ ra trận đánh cho đến khi kết thúc thắng lợi thuộc về phía nghĩa quân Tây Sơn, trận thủy chiến này chỉ diễn ra trong vòng có một ngày (đêm 9 tháng 12 rạng ngày 10 tháng 12 năm Giáp Thìn nhằm (đêm 19 rạng ngày 20 - 01- 1785); kết quả là 300 chiến thuyền Xiêm bị đánh đắm và bị thiêu hủy hoàn toàn, 2 vạn quân thuỷ của địch cũng bị tiêu diệt gần hết; và kể từ sau trận này, “Người Xiêm tuy bề ngoài thì miệng nói khoác, nhưng trong lòng thì sợ quân Tây Sơn như sợ cọp” (Đại Nam thực lục).
Còn chiến dịch NH - ĐĐ mở đầu đêm 30 - 12 năm Mậu Thân (đêm 25- 1-1789) và kết thúc thắng lợi bằng việc giải phóng thành Thăng Long vào ngày 5 - 1 năm Kỷ Dậu (30 -01 - 1789). Như vậy, chiến dịch NH - ĐĐ chỉ diễn ra có 5 ngày đêm; và trong ngần ấy thời gian, nghĩa quân đã trãi qua cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt, tiêu diệt và làm tan rã 29 vạn quân Thanh xâm lược; còn bản thân tên chủ tướng Tôn Sĩ Nghị kinh hoàng đến mức ngựa không kịp đóng yên, giáp không kịp mặc, vứt bỏ cả ấn tín trốn chạy về nước.
7) Sử dụng lối đánh hoả công tiêu diệt kẻ thù
Nghĩa quân Tây Sơn được trang bị pháo với số lượng rất nhiều và các loại vũ khí cận chiến rất lợi hại, như hỏa hổ (một loại khí cụ có phun lửa), hỏa cầu (một loại khí cụ tương tự như lựu đạn ngày nay), v.v… Đây là những loại vũ khí mang tính chiến lược của nghĩa quân, có tác dụng đánh phủ đầu, tạo nên sức mạnh hỏa lực tấn công vô cùng hùng hậu và những cơn bão lữa khủng kiếp, nhằm vừa sát thương, vừa làm cho đối phương hoảng sợ, kiếp đảm, không còn ý chí chiến đấu, tạo điều kiện để nghĩa quân xông lên dứt điểm trận đánh bằng bạch khí (gươm, dao, giáo, mác…).
Trong chiến dịch RG - XM, sau khi 300 chiến thuyền Xiêm lọt vào trận địa mai phục, pháo từ trên bộ và từ các chiến thuyền Tây Sơn đã thi nhau nả đạn vào chiến thuyền địch. Tiếp theo, những chiến thuyền nhỏ, có sức cơ động nhanh của nghĩa quân xông ra chia cắt đội hình địch; rồi dùng hỏa hổ, hỏa cầu tấn công, đốt cháy chiến thuyền của quân Xiêm. Cả một đoạn sông Tiền, từ rạch Xoài Mút đến Rạch Gầm, vang lên tiếng hò reo xung phong dậy đất của nghĩa quân và ánh lửa cháy ngút trời. Quân Xiêm bị đại bại hoàn toàn.
Khi sang xâm lược nước ta, biết nghĩa quân Tây Sơn có hỏa hổ, hỏa cầu và lối đánh hỏa công rất dũng mãnh, chủ tướng quân Thanh Tôn Sĩ Nghị đã đề ra một số biện pháp nhằm vô hiệu hóa thế mạnh của nghĩa quân Tây Sơn. Thế nhưng, điều mà y lo ngại đã trở thành sự thực. Trong chiến dịch NH - ĐĐ, ở hai trận đánh có tính quyết định cho toàn chiến dịch là trận Ngọc Hồi và trận Đống Đa, nghĩa quân Tây Sơn, với những vũ khí cực kỳ lợi hại ấy và lối đánh hỏa công táo bạo, mưu trí, đã đè bẹp mọi sự kháng cự của địch; tên Đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy đồn Ngọc Hồi phải bỏ chạy; tên Đề đốc Sầm Nghi Đống chỉ huy đồn Đống Đa phải thắt cổ tự vẫn chết.
8) Kiên quyết thực hiện thế bao vây
Chiến dịch RG - XM mang tính chất phục kích và thủy chiến; trong khi đó, chiến dịch NH - ĐĐ lại là chiến dịch nổi rõ lên tính công kích và bộ chiến. Tuy vậy, cả hai chiến dịch đều giống nhau ở một chỗ là, Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn đã thực hiện thế bao vây chặt chẽ quân thù, khiến cho cơ may chạy thóat của bọn chúng còn rất ít.
Trong chiến dịch RG - XM, thủy quân Tây Sơn thực hiện thế bao vây bằng cách chặn đầu ở rạch Xoài Mút khóa đuôi ở Rạch Gầm và kiểm soát chặt các cù lao Thới Sơn, Phú Túc để ngăn địch tháo chạy qua ngã Bến Tre.
Trong chiến dịch NH - ĐĐ, để thực hiện thế bao vây đối với quân Thanh, Nguyễn Huệ đã chia quân ra làm 5 đạo, trong đó, 3 đạo tấn công trực tiếp vào thành Thăng Long, 1 đạo tiến ra Hải Dương và 1 đạo tiến lên Bắc Giang để chặn đuờng rút lui của địch. Kết quả, cả quân Xiêm và quân Thanh gần như bị tiêu diệt hoàn toàn.
***
Hai chiến dịch RG - XM (1785) và NH - ĐĐ (1789) giành được thắng lợi rực rỡ. Với RG - XM và NH - ĐĐ, nhân dân ta đã đập tan hành động cướp nước và bán nước của bọn giặc Xiêm - Nguyễn Ánh và của bọn giặc Thanh - Lê Chiêu Thống, củng cố thêm một bước nền thống nhất quốc gia, bảo vệ vững chắc nền độc lập và lãnh thổ của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, Nxb Tiền Giang, 1985.
2. Nguyễn Lương Bích - Phạm Ngọc Phụng, Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, 2006.
3. Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2005.
4. Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb Khoa học xã hội, 2004.
5. Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Nxb Thuận Hóa, 2001.
6. Tạ Chí Đại Trường, Việt Nam thời Tây Sơn: Lịch sử nội chiến 1771 - 1802, Nxb Công an nhân dân, 2007.
7. Ủy ban Khoa học xã hội, Lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, 1971.